Hiển thị các bài đăng có nhãn Nội Khoa - tiết niệu. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Nội Khoa - tiết niệu. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 28 tháng 1, 2009

Tìm hiểu về nhiễm trùng tiết niệu trong bệnh viện

Nhiễm trùng đường tiểu (NTĐT) là một bệnh nhiễm trùng thường gặp xuất hiện khi vi khuẩn gây bệnh đi vào lỗ tiểu và nhân lên trong đường tiểu hoặc do vi khuẩn từ máu đến định cư tại nơi này. Đường tiểu, hay đường tiết niệu, bao gồm hai thận, niệu quản (hai ống dẫn nước tiểu từ thận đến bàng quang), bàng quang (hay bọng đái), và niệu đạo (ống dẫn nước tiểu từ bàng quang ra lỗ niệu đạo để ra ngoài khi tiểu).

Bình thường nước tiểu vốn vô trùng. Cấu tạo đặc biệt ở vị trí niệu quản gắn vào thành bàng quang có tác dụng như một van chống trào ngược nhằm ngăn ngừa nước tiểu đi ngược từ bàng quang lên thận. Dòng chảy của nước tiểu cũng là một lực cơ học giúp tống xuất vi khuẩn nếu chúng xâm nhập vào đây. Tất cả các đối tượng đều có thể mắc nhiễm trùng đường tiểu.


Phân loại nhiễm trùng đường tiểu

Nhiễm trùng đường tiểu thường xuất hiện đầu tiên ở phần thấp (niệu đạo, bàng quang) và nếu không được điều trị nó có thể diễn tiến nặng lên đưa đến nhiễm trùng đường tiểu trên (niệu quản, thận).

Sau đây là ba thể bệnh điển hình [1]:

* Viêm niệu đạo: viêm hay nhiễm trùng niệu đạo gây nên cảm giác bỏng rát khi đi tiểu và đôi khi có mủ. Với nam giới, viêm niệu đạo có thể gây nên chảy mủ ở lỗ sáo (lỗ niệu đạo) dương vật. Điển hình nhất là bệnh lậu: nam giới mắc bệnh này thường có mủ ở lỗ sáo (triệu chứng học gọi là "hạt sương ban mai").

* Viêm bàng quang: là NTĐT thường gặp nhất gây nên đau tức bụng dưới, nước tiểu rất khai và đôi khi tiểu máu.

* Viêm thận-bể thận cấp: có thể do nhiễm trùng ngược dòng từ bàng quang lên hoặc do từ dòng máu. Nhiễm trùng thận hay viêm thận-bể thận (cần phân biệt với viêm cầu thận) là một cấp cứu y khoa vì nó có thể nhanh chóng đưa đến suy giảm chức năng thận cũng như tử vong nếu không điều trị kịp thời và hiệu quả.

Dịch tễ

Xấp xỉ 8 đến 10 triệu người Mỹ mắc NTĐT mỗi năm [2]. Phụ nữ thường dễ mắc NTĐT hơn nam giới vì những nguyên nhân không rõ mặc dù đường niệu đạo ngắn của giới này có thể là một yếu tố nguy cơ. NTĐT xảy ra ở khoảng 5% trẻ em gái và 1-2% ở trẻ em trai. Tỉ lệ mắc NTĐT ở trẻ sơ sinh vào khoảng 0,1-1% và tăng cao đến 10% ở trẻ sơ sinh nhẹ cân. Trước 1 tuổi, trẻ trai thương bị cao hơn trẻ gái. Sau lứa tuổi này NTĐT thường gặp ở trẻ gái nhiều hơn so với trẻ trai [3].

Nguyên nhân và yếu tố nguy cơ

Escherichia coli (E. coli) gây nên 80% trường hợp NTĐT ở người lớn [4]. Vi khuẩn này thường hiện diện trong đại tràng và có thể đi vào lỗ niệu đạo từ vùng da xung quanh hậu môn và cơ quan sinh dục. Phụ nữ có thể dễ nhiễm bệnh hơn do lỗ niệu đạo nằm gần với nguồn vi khuẩn từ phía sau (hậu môn, âm đạo) và niệu đạo của phụ nữ cũng ngắn hơn do đó vi khuẩn dễ dàng xâm nhập vào bàng quang.

Các vi khuẩn khác gây NTĐT bao gồm Staphylococcus saprophyticus (5-15% trường hợp), Chlamydia trachomatis, Proteus và Mycoplasma hominis. Nam giới và phụ nữ nếu nhiễm Chlamydia trachomatis hay Mycoplasma hominis đều có thể truyền vi khuẩn này cho bạn tình trong khi giao hợp gây nên NTĐT.

Giao hợp cũng có thể gây nên NTĐT ở một số phụ nữ (mặc dù bạn tình không mắc bệnh) vì những lí do không rõ ràng. Phụ nữ sử dụng màng ngăn âm đạo (diaphragm) thường dễ nhiễm trùng hơn và bao cao su có chứa chất diệt tinh trùng cũng có thể làm tăng phát triển E. coli trong âm đạo. Vi khuẩn này sau đó có thể đi vào niệu đạo.

Thủ thuật thông tiểu (đưa một ống nhỏ theo niệu đạo vào bàng quang để dẫn lưu nước tiểu) cũng là yếu tố nguy cơ gây bệnh. Nếu ống thông lưu càng lâu ngày thì nguy cơ mắc bệnh càng cao.

Ở trẻ nhũ nhi, vi khuẩn từ tã lót dính phân có thể đi vào đường tiểu và gây bệnh. Ngay cả ở thiếu nữ nếu có thói quen lau hậu môn từ sau ra trước sau khi đại tiện cũng dễ mắc bệnh hơn.

Các yếu tố nguy cơ khác gồm:

* Tắt nghẽn đường ra của bàng quang do sỏi hoặc u xơ tiền liệt tuyến
* Các bệnh lý ảnh hưởng đến chức năng tống xuất nước tiểu của bàng quang làm bàng quang luôn có một lượng nước tiểu ứ đọng sau tiểu tiện (chấn thương cột sống)
* Những dị tật bẩm sinh của đường tiết niệu, đặc biệt là trào ngược bàng quang-niệu quản
* Suy giảm miễn dịch
* Đái tháo đường
* Hẹp bao quy đầu
* Có thai hoặc mãn kinh
* Sỏi thận
* Giao hợp với nhiều bạn tình
* Hẹp niệu đạo do bẩm sinh hoặc do chấn thương
* Bất động lâu ngày (chấn thương, bại liệt)
* Uống ít nước
* Chứng són phân

Một số nhóm máu tạo điều kiện cho vi khuẩn dễ bám vào tế bào lót bề mặt đường tiểu gây nên nhiễm trùng đường tiểu tái diễn

Triệu chứng

Triệu chứng NTĐT ở trẻ nhỏ

* Tiêu chảy
* Khóc quá mức và không thể dỗ nín bằng các các thông thường như cho bú, ôm ấp...
* Chán ăn
* Sốt
* Buồn nôn và nôn mửa

Các triệu chứng NTĐT có thể gặp ở trẻ lớn

* Đau thắt lưng hoặc đau bên mạn sườn (trong trường hợp nhiễm trùng ở thận)
* Tiểu rắt: tiểu nhiều lần nhưng mỗi lần chỉ được một ít nước tiểu
* Són nước tiểu
* Tiểu buốt: trẻ thường đau khi tiểu. Đặc biệt trẻ trai đang tiểu vì đau quá nên có thể đưa tay bóp lấy dương vật. Do vậy bàn tay trẻ thường bay mùi nước tiểu ("dấu hiệu bàn tay khai")
* Đau vùng bụng dưới
* Nước tiểu đục đôi khi có máu hoặc có mùi bất thường

Nhiễm trùng đường tiểu dưới ở người lớn

* Đau lưng
* Tiểu máu
* Nước tiểu đục
* Tiểu khó mặc dù rất muốn tiểu
* Sốt
* Tiểu nhiều lần
* Cảm giác toàn thân không được khỏe
* Tiểu đau
* Giao hợp đau

Triệu chứng NTĐT trên ở người lớn

* Ớn lạnh
* Sốt cao
* Buồn nôn, nôn mửa
* Đau vùng hạ sườn

Biến chứng

* Viêm thận bể thận cấp
* Áp xe quanh thận
* Nhiễm trùng huyết
* Suy thận cấp
* Trẻ em có trào ngược bàng quang niệu quản có thể gây nhiễm trùng thận nhanh chóng đưa đến suy thận mạn
* Phụ nữ có thai bị NTĐT có thể gây đẻ non, sẩy thai, nhiễm trùng sơ sinh ... [5]

Chẩn đoán

Tất cả những dấu hiệu nêu trên là những gợi ý để khám xét và làm các xét nghiệm. Que thử nước tiểu nhanh có thể là một test sàng lọc. Que thử này có thể phát hiện sự hiện diện của protein, bạch cầu, hồng cầu và một số chỉ số hóa sinh khác mang tính cách định hướng.

Các xét nghiệm khác cần làm có thể là:

* Phân tích nước tiểu: hóa sinh, tế bào
* Cấy nước tiểu
* Cấy máu
* Chẩn đoán hình ảnh: siêu âm hoặc chụp X quang để phát hiện các dị tật bẩm sinh của đường tiết niệu...

Vì rất nhiều trẻ em bị viêm bàng quang thường có một bất thường giải phẫu nào đó tạo điều kiện cho nhiễm trùng, vì các nhiễm trùng này có thể phòng ngừa được và cũng vì biến chứng lâu ngày của NTĐT tái diễn nếu không được kiểm soát là rất nghiêm trọng nên những trẻ này thường cần phải được khám xét thật kỹ lưỡng.

Các xét nghiệm này gồm siêu âm thận và đường tiểu cũng như chụp X quang có thuốc cản quang khi trẻ đi tiểu (chụp quàng quang niệu quản khi tiểu).

Các bác sĩ chuyên khoa khuyến cáo các đối tượng sau nên được khảo sát bằng các phương pháp trên [6]:

* Trẻ gái trên 5 tuổi có hai hoặc nhiều lần NTĐT
* Tất cả trẻ trai ngay khi bị NTĐT lần đầu tiên
* Tất cả những trẻ có sốt khi mắc NTĐT
* Tất cả trẻ dưới 5 tuổi bị NTĐT

Điều trị

Những trường hợp viêm bàng quang nhẹ nhàng có thể tự lành mà không cần điều trị nào [7] tuy nhiên vì chúng có khả năng gây nên những biến chứng nặng nề nên tất cả các trường hợp nhiễm trùng đường tiểu dù nặng hay nhẹ đều được khuyến cáo điều trị kỹ càng. Thuốc điều trị thường dùng là các kháng sinh. Liệu trình cũng như loại thuốc tùy thuộc vào loại vi khuẩn cũng như vị trí nhiễm trùng.

Các kháng sinh thường dùng:

* Nitrofurantoin
* Cephalosporin
* Sulfonamide
* Amoxicillin
* Trimethoprim-sulfamethoxazole
* Doxycycline (không dùng cho trẻ dưới 8 tuổi)
* Quinolone (không nên dùng cho trẻ em)

Khi được điều trị, các NTĐT dưới có thể hết triệu chứng chỉ trong vòng vài ngày nhưng điều trị cần kéo dài từ 10 đến 15 ngày để đề phòng viêm thận bể thận.

Nhiễm trùng đường tiểu do các tác nhân Chlamydia trachomatis và Mycoplasma hominis cần điều trị với tetracycline hoặc doxycycline dài ngày.

Nhiễm trùng đường tiểu do bất thường giải phẫu hoặc có biến chứng tạo ổ mủ sâu cần phải phẫu thuật.

Nhiễm trùng đường tiểu tái diễn (3 hoặc nhiều lần NTĐT trong một năm) có thể điều trị kéo dài đến 6 tháng đôi khi đến cả 2 năm.

Theo dõi điều trị bằng xét nghiệm nước tiểu là biện pháp bắt buộc để đánh giá hiệu quả của điều trị.

Phòng bệnh

Những biện pháp sau đây có thể làm giảm nguy cơ nhiễm trùng đường tiểu [8], [9]:

* Biện pháp chung nhất là gìn giữ vệ sinh cá nhân thật tốt
* Tránh các chất có thể gây kích thích niệu đạo (nằm trong bồn tắm hòa xà phòng, chất khử mùi tại chỗ).
* Vệ sinh sạch vùng sinh dục trước khi giao hợp
* Thay tã cho trẻ ngay lập tức sau khi dính phân
* Uống nhiều nước nhằm tăng lượng nước tiểu để tống xuất vi khuẩn khỏi đường tiểu
* Không được nhịn tiểu (trừ trường hợp có lời khuyên của bác sĩ)
* Tắm vòi hoa sen chứ không nên tắm bồn tắm
* Đi tiểu trước và sau khi giao hợp
* Cần tập cho các bé gái thói quen lau hậu môn từ trước ra sau khi làm vệ sinh sau đại tiện tránh đưa vi khuẩn từ vùng hậu môn vào lỗ niệu đạo
* Vitamin C cũng có khả năng giảm nguy cơ NTĐT
* Nếu phụ nữ đang đọ tuổi sinh hoạt tình dục mà thường xuyên bị NTĐT thì nên xem lại tư thế giao hợp nhằm tránh bớt các tư thế gây tác động nhiều đến lỗ niệu đạo
* Với trẻ em cần tuân theo các hướng dẫn trong phần xét nghiệm ở trên để phát hiện sớm các yếu tố nguy cơ nhằm kiểm soát NTĐT và các biến chứng lâu dài của nó

siêu tầm từ http://dulieunguon.blogspot.com

Bí đái tại sao?

Người ta ví con đường đi của nước tiểu như một dòng sông, chúng được hình thành từ các cầu thận, chạy qua các tiểu quản để đổ vào đài thận rồi đến bồn thận. Từ bồn thận nước tiểu sẽ dẫn theo niệu quản và chảy vào bàng quang, để sau cùng là thoát ra ngoài qua niệu đạo.

Vị trí của bàng quang (4) trong cấu tạo cơ quan sinh dục nữ. Ảnh: ==>

Với một đường đi dài và phức tạp như vậy thì cũng có lúc nước tiểu bị tắc nghẽn. Trong bài viết này chúng tôi muốn đề cập đến chứng tiểu khó do bất thường ở đường tiểu dưới (bàng quang và niệu đạo).

Vì sao có tình trạng bí tiểu?
Đi tiểu là một động tác theo ý muốn do sự kết hợp hài hòa giữa sự co bóp mạnh của bàng quang và sự giãn nở thật rộng của cổ bàng quang, đó là cơ vòng trong và cơ vòng ngoài (cơ vòng niệu đạo). Cơ vòng trong còn có tên là cơ vòng nhẵn, chịu sự chi phối của hệ thần kinh thực vật, còn cơ vòng ngoài chịu sự chi phối của não. Như vậy, muốn đi tiểu được phải có đủ các điều kiện: bàng quang co bóp đủ mạnh, các cơ vòng giãn nở đủ rộng, niệu đạo thông thương, không bị vướng mắc. Thiếu một trong các yếu tố trên sẽ dẫn đến bí tiểu.

Khi nào bàng quang không co bóp đủ mạnh?
Bàng quang là một cơ rỗng, có 3 lớp, chịu sự chỉ huy của hệ thần kinh thực vật hay tự chủ, do vậy sự co bóp của bàng quang là hiện tượng phản xạ xảy ra ngoài ý muốn. Khi bàng quang có đủ lượng nước tiểu từ 300- 400ml là xuất hiện cung phản xạ muốn đi tiểu. Nhưng đi tiểu là một động tác theo ý muốn, nếu chưa muốn đi tiểu não sẽ ức chế không cho cung phản xạ hoạt động, tức sẽ cắt đứt ngay luồng thần kinh của cung phản xạ thực vật chi phối mót tiểu đồng thời không cho cơ vòng vân mở rộng. Ngược lại nếu muốn đi tiểu, não sẽ thả lỏng cho cung phản xạ hoạt động và sai khiến cơ vòng vân mở rộng. Lúc đó bàng quang sẽ co bóp và tống nước tiểu thoát ra ngoài thành vòi với áp lực khoảng 700mm nước.

Bàng quang sẽ không co bóp đủ mạnh trong các trường hợp: mất sự liên hệ với hệ thần kinh thực vật, đặc biệt là khi bị chấn thương cột sống; thành bàng quang bị chai xơ do viêm mạn tính, mô đàn hồi bị thay thế bằng mô sợi làm bàng quang co bóp yếu.

Khi nào các cơ vòng nhẵn không giãn nở gây bí tiểu?
Cơ vòng nhẵn tức cổ bàng quang không giãn nở khi: mất liên lạc với hệ thần kinh thực vật, hay gặp trong các trường hợp chấn thương cột sống; cơ vòng bị xơ chai bẩm sinh hay do viêm mạn tính; cơ vòng bị biến dạng và chèn ép bởi u tiền liệt tuyến; bị bít kín do sỏi ở bàng quang. Bản chất của cơ vòng ngoài là luôn luôn co thắt lại. Lúc đi tiểu não sẽ ức chế sự co thắt này và làm giãn nở. Nếu vì lý do gì đó não không tác động được vào cơ vòng nữa sẽ gây bí tiểu như trong chấn thương cột sống.

Khi nào niệu đạo mất thông suốt gây bí tiểu?
Niệu đạo mất sự thông suốt khi bị chít hẹp do viêm làm xơ hóa, bị bít lại do sỏi, bị vỡ do chấn thương.

Các loại bí tiểu và biện pháp xử trí
Bí tiểu cấp tính là hiện tượng đột ngột bí tiểu, bệnh nhân cố rặn mới may ra có vài giọt nước tiểu thoát ra ngoài, trong khi đó thì bàng quang căng đầy, cảm giác rất tức bụng và đôi khi xuất hiện cơn co thắt. Nguyên nhân chủ yếu thường là do u lành tiền liệt tuyến gây chèn ép, sỏi mắc nghẽn tại cổ bàng quang hay niệu đạo, chấn thương vỡ, giập niệu đạo, chấn thương cột sống. Với tình trạng này bệnh nhân phải được thông tiểu ngay, đó là các biện pháp phẫu thuật lấy sỏi, giải quyết sự chèn ép đường tiểu, hoặc dùng các ống dẫn nước tiểu luồn vào niệu đạo tới bàng quang cho nước tiểu thoát ra ngoài.

Bí tiểu mạn tính là kết quả của tình trạng tiểu khó và tiểu không hết trải qua thời gian dài, nước tiểu tồn tại trong bàng quang ngày một tăng. Đến lúc nào đó bụng dưới hình thành khối cầu bàng quang lớn dần nhìn thấy được, to như quả bóng nhỏ. Bệnh nhân dần dần thích nghi với tình trạng bất thường này. Nhưng sự ứ đọng này vô cùng nguy hiểm với thận. Nếu tình trạng này kéo dài sẽ gây ra sự căng trướng toàn bộ hệ tiết niệu, viêm nhiễm tiết niệu ngược dòng và suy thận. Lúc đó sẽ rất nguy hiểm đến tính mạng. Do vậy biện pháp điều trị là thông đường tiểu qua da, giảm ngay sự căng trướng, ứ đọng của nước tiểu trong bàng quang, sau đó loại bỏ nguyên nhân gây bí tiểu.

Các trường hợp bí tiểu có nguyên nhân tại chỗ hoặc ở sự chỉ huy thần kinh trung ương hoặc thần kinh thực vật. Các nguyên nhân tại chỗ như sỏi bàng quang, u tiền liệt tuyến đều phải giải quyết bằng phẫu thuật hoặc nội soi. Các nguyên nhân khác có thể dùng thuốc hoặc can thiệp ngoại khoa. Tất cả các hiện tượng bí tiểu đều phải được nhanh chóng tìm ra nguyên nhân và có các biện pháp xử trí kịp thời, người bệnh (đặc biệt là nam giới lớn tuổi) cần phải đặc biệt chú ý đến điều này, nếu để lâu sẽ gây ra những biến chứng nguy hiểm.

siêu tầm từ http://dulieunguon.blogspot.com

Lọc thận, theo dõi và phát hiện các biến chứng

Ngày nay lọc máu được triển khai nhiều bệnh viện, bệnh nhân sau lọc máu được nằm nhiều chuyên khoa khác nhau tuy nhiên người Điều dưỡng cần biết vài thông tin cơ bản sau nhằm theo dõi và chăm sóc phát hiện sớm các biến chứng có thể xảy ra ở người bệnh:

Lọc máu là quá trình loại bỏ các chất độc hại và nước dư thừa ra khỏi cơ thể khi thận không còn khả năng thực hiện chức năng của nó.

Các nguyên nhân khiến bệnh nhân cần lọc máu

Bác sỹ quyết định cho bệnh nhân lọc máu khi bệnh nhân bị suy thận và gây nên:
Bất thường chức năng não
Viêm túi bao quanh tim (bệnh viêm màng ngoài tim)
Lượng axit trong máu cao (nhiễm axit) mà không xử trí được bằng các cách khác
Suy tim
Lượng nước ứ thừa trong cơ thể quá nhiều
Ứ thừa nước trong phổi (phù phổi) mà không xử trí được bằng các cách khác
Lượng Kali trong máu quá cao (tăng Kali huyết)
Các cách thẩm tách (lọc máu): Có hai cách lọc máu: Lọc máu chu kỳ và lọc màng bụng

Lọc máu chu kỳ:
Trong lọc máu chu kỳ - thẩm tách máu, máu được lấy từ cơ thể và bơm vào một máy qua một máy lọc (thẩm tách).Bộ lọc sẽ lọc hết các chất chuyển hoá dư thừa trong máu và trả máu đã được lọc sạch lại cơ thể. Số lượng nước lọc ra ngoài có thể được điều chỉnh. Thông thường, bệnh nhân cần lọc máu ở bệnh viện, trung tâm y tế.

Lọc máu chu kỳ cần phải đâm kim lấy máu, nên cần có một chỗ đâm kim, bác sỹ có thể tạm thời làm đường mạch máu, tuy nhiên về lâu dài, bệnh nhân cần làm phẫu thuật cầu tay để có đường vào mạch máu lâu dài, gọi là lỗ nối thông động tĩnh mạch: là nối giữa động mạch quay và tĩnh mạch nền. Việc nối thông động tĩnh mạch được tiến hành ở các cơ sở ngoại khoa, phẫu thuật mạch máu.

Trong lọc máu chu kỳ - thẩm tách máu, máu được lấy từ cơ thể và bơm vào một máy qua một máy lọc (thẩm tách).Bộ lọc sẽ lọc hết các chất chuyển hoá dư thừa trong máu và trả máu đã được lọc sạch lại cơ thể. Số lượng nước lọc ra ngoài có thể được điều chỉnh.

Lọc máu chu kì
Heparin, một loại thuốc chống đông máu thường được sử dụng trong quá trình lọc máu để tránh máu bị đông trong quả lọc. Lọc máu là sử dụng một bộ lọc đặc biệt gọi là máy thẩm tách, có chức năng như một quả thận nhân tạo để lọc máu cho bạn. Trong quá trình thẩm tách, máu của bạn sẽ đi qua một ống dẫn đến bộ lọc (thẩm tách),nó sẽ lọc hết chất thải & nước thừa. Sau đó máu sạch sẽ được đưa lại cơ thể bạn qua một ống khác. Bộ thẩm tách (lọc) nối với một máy có điều khiển dòng chảy của máu và loại bỏ các chất độc hại từ máu của bạn.Thông thường cần chạy thận nhân tạo 3 lần một tuần; mỗi lần kéo dài từ 3 đến 5 giờ.

Những biến chứng có thể gặp khi lọc máu chu kỳ
-Sốt
-Vi khuẩn hay chất gây sốt có trong dòng máu
-Phản ứng với lọc máu
-Dị ứng với dịch lọc
-Tụt huyết áp
-Rút quá nhiều nước
-Loạn nhịp tim
-Lượng Kali bất thường trong máu
-Khí vào do hở đường máu
-Chảy máu bất thường ở ruột, não, mắt
-Phải dùng Heparin để chống đông máu
-Nhiễm trùng

Lọc màng bụng:
Một hỗn hợp khoáng chất và đường hoà tan trong nước, đó là dung dịch lọc. Đường, được gọi là dextroza, lấy nước, hoá chất và nước dư thừa từ mạch máu ở trong màng bụng của bạn để đưa đến dung dịch lọc. Sau vài giờ, dung dịch chảy từ bụng của bạn qua một ống, và lấy đi tất cả những chất dư thừa theo nó. Sau đó màng bụng của bạn sẽ được bơm đầy với dung dịch sạch, và chu trình lại được lặp lại.Quá trình lấy đi và bơm đầy lại như vậy được gọi là một quá trình trao đổi.

Trước lần lọc máu đầu tiên, cần phải có một cuộc tiểu phẫu, một ống nhỏ mềm gọi là “catheter” được đặt trong bụng của bạn. Ống này sẽ bắt đầu hoạt động hiệu quả sau khoảng 10 ngày đến 2 hoặc 3 tuần, đủ thời gian cho chỗ phẫu thuật đặt được liền miệng.Lên kế hoạch đặt ống “catheter” có thể làm cho qúa trình trị liệu đạt kết quả tốt hơn. Ống này sẽ được đặt vĩnh viễn, để giúp chuyển dịch lọc đến và đi từ màng bụng của bạn.

Có nhiều kỹthuật lọc máu màng bung, tuy nhiên cách đơn giản nhất là Lọc máu liên tục, người bệnh có thể đi lại được (CAPD) CAPD không cần máy móc và có thể làm bất kể ở chỗ nào chỉ cần sạch sẽ. Với CAPD, máu của bạn lúc nào cũng được lọc. Dung dịch lọc chuyển từ một túi ni-lon qua ống đến màng bụng của bạn, dung dịch ở đó khoảng vài giờ trong ống catherer kín. Thời gian dung dịch lọc ở trong màng bụng của bạn được gọi là thời gian dừng.

Sau đó, qua ống dẫn lưu rút hết dung dịch lọc vào một túi để bỏ đi. Rồi lại tiếp tục làm đầy màng bụng của bạn bằng dung dịch lọc mới và quá trình lọc lại tiếp tục. Với CAPD, dung dịch lọc ở trong màng bụng của bạn một khoảng thời gian từ 4 đến 6 tiếng (hoặc hơn).

Quá trình lấy dung dịch bẩn ra và thay dung dịch lọc sạch mới mất khoảng 30 – 40 phút. Phần lớn bệnh nhân thay dung dịch lọc ít nhất 4 lần mỗi ngày và ngủ khi dung dịch lọc trong thời gian dừng. Với CAPD, không cần thiết phải dậy và thay dung dịch lọc vào ban đêm.

Những biến chứng có thể gặp ở lọc máu màng bụng
-Chảy máu
-Khi làm phẫu thuật đặt ống catheter, bác sỹ có thể vô tình làm tổn thương nội tạng, hoặc bị chảy máu trong mà không biết.
-Ống catheter không dính với thành bụng
-Nhiễm trùng
-Quá trình lọc có thể không được vô khuẩn
-Mất Albumin trong quá trình lọc
-Gây sẹo ở bụng
-Viêm nhiễm, nhiễm trùng, chất điện giải có trong dịch lọc
-Mức đường huyết cao
-Thoát vị bẹn
-Táo bón

Nguyên nhân thận suy
Thận suy khi khả năng lọc máu của tiểu cầu thận bị rối loạn hoặc ngưng hoạt động. Suy thận có thể là cấp tính hoặc mãn tính.

Suy cấp tính xẩy ra rất nhanh vì huyết áp đột nhiên xuống rất thấp sau khi cơ thể bị chấn thương trầm trọng hoặc do biến chứng của phẫu thuật, trong trường hợp nhiễm khuẩn hoặc trong các bệnh nặng.. Ðây là một tình trạng rất nghiêm trọng cần được điều trị liên tục tại bệnh viện. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, thận có thể phục hồi được khả năng vài tuần hoặc vài tháng, sau cơn hiểm nghèo.

Trong suy thận kinh niên, khả năng lọc máu của thận giảm từ từ và thường là do hậu quả của một số bệnh như viêm thận tiểu cầu, tiểu đường, cao huyết áp, đa nang thận... Khi khả năng lọc của thận chỉ còn từ 5 tới 10% thì thận đi vào giai đoạn cuối và cần thận nhân tạo hoặc thay ghép thận.

Sau đây là một số nguyên nhân có thể đưa tới suy thận:
a. Nguyên nhân ở phía trên thận như sự giảm khối lượng nước ngoài tế bào trong các trường hợp phỏng nặng, đi tiểu nhiều, xuất huyết, trướng bụng nước, giảm dung lượng máu vì bệnh tim hoặc do nhiễm độc máu, suy chức năng gan, tác dụng hại của một số hóa chất, dược phẩm...

b. Từ trái thận trong các bệnh của bệnh thận, do nhiễm trùng thận, thương tích thận, do tác dụng xấu của hóa chất dược phẩm lên thận, trong bệnh tiểu đường, cao huyết áp ..Sử dụng quá nhiều và quá lâu các loại thuốc chống đau như aspirin, phenacetin...là một trong những nguyên nhân thường thấy.

c. Các yếu tố tới từ phía dưới thận như sạn tiết niệu, tắc nghẽn ống dẫn tiểu, rối loạn các khả năng của bàng quang, sưng nhiếp tuyến...

Hậu quả của suy thận:
a. Khi thận suy, chất thải ure, creatinine sẽ tràn ngập máu, mất cân bằng giữa nước và các chất điện phân, kali lên cao, calci giảm, chất đạm thất thoát...Ure là sản phẩm phân hủy chính trong sự chuyển hóa của chất đạm và được thận lọc bài tiết ra ngoài. Tích tụ ure trong máu khi bị suy thận sẽ đưa tới buồn nôn, ngủ lịm, suy nhược cơ thể ...và có thể tử vong nếu không được điều trị

b- Thiếu hồng cầu:
Thận tiết ra hormon erythropoietin để kích thích tủy sản xuất hồng huyết cầu. Khi thận suy, hormon nay giảm và đưa tới thiếu hồng cầu. Hồng cầu chở oxy tới các tế bào. Thiếu oxy, tế bào không sử dụng được năng lượng từ thực phẩm, do đó người bệnh dễ bị mệt mỏi, da xanh nhợt. Thận nhân tạo không phục hồi được khả năng sản xuất kích thích tố này của thận.

c- Loạn dưỡng xương
thường thấy ỏ 90% bệnh nhân suy thận đặc biệt là người cao tuổi và phụ nữ trong thời kỳ mãn kinh. Nguyên do đưa tới rối loạn là thận không duy trì được mức độ bình thường của calcium và phosphore trong máu. Xương trở nên mỏng, yếu, thay đổi hình dạng và dễ gẫy.

d- Rối loạn giấc ngủ. Rối loạn này rất thường thấy ở người suy thận, lọc máu. Bệnh nhân luôn luôn ở trong tình trạng mệt mỏi, nhức đầu, ngây ngất, buồn rầu, rối loạn giờ giấc ngủ, đau nhức cơ thể, bồn chồn...

đ- Ngứa ngoài da trong khi hoặc sau khi lọc máu, vì ure huyết quá cao

e- Ðau nhức xương khớp vì chứng thoái hóa dạng tinh bột amyloidosis: chất đạm trong máu lên cao, đóng vào khớp xương và gân gây đau nhức, cứng khớp..

Lọc máu
Phương pháp lọc máu với thận nhân tạo được áp dụng .khi khả năng loại bỏ chất phế thải và nước dư trong máu của thận chỉ còn khoảng từ 5 tới 10% so với mức độ bình thường.

Suy thận cấp tính không đáp ứng với điều trị thì lọc máu có thể được áp dụng trong một thời gian ngắn cho tới khi thận hoạt động trở lại. Suy thận kinh niên thì phải lọc máu suốt đời, nếu không được thay ghép thận.

Mục đích của thận nhân tạo là để mang lại sức khỏe cho cơ thể, bằng cách:
-Loại bỏ chất thải, muối khoáng và nước dư trong máu, tránh ứ đọng trong cơ thể
-Duy trì huyết áp ở mức bình thường
-Giữ thăng bằng một số hóa chất trong máu..

Hệ thống lọc máu thận nhân tạo đầu tiên được thành hình trong thế chiến thứ II. Máu được dẫn qua một ống làm bằng màng bán thấm, nhúng trong dung dịch nước rửa máu. Màng bán thấm để các phân tử nhỏ như chất thải ure chạy qua và máu sạch được truyền trở lại cơ thể.

Trong những thập niên vừa qua, thận nhân tạo đã được cải tiến với nhiều hiệu năng và dễ dàng sử dụng hơn.

Nguyên tắc của sự lọc máu thực ra rất giản dị:
Máu từ cơ thể được dẫn vào một hệ thống lọc đặc biệt gọi là dialyser hoặc “thận nhân tạo”. Dung dịch rửa máu (dialysate) được cho lưu hành xung quanh thận nhân tạo để lấy ra các chất phế thải ure, creatinine ... Máu sạch chứa tế bào máu, chất dinh dưỡng được đưa trở lại cơ thể.

Việc đưa máu ra vào cơ thể hơi phức tạp hơn.

Thường thường là có hai kim: một để lấy máu ra khỏi cơ thể và một kim dẫn máu trở lại cơ thể. Có ba cách để tạo ra nơi cắm kim cho việc lọc máu:

-Tạo ra một lỗ rò vĩnh viễn (fistula) giữa một động mạch và một tĩnh mạch, máu sẽ vào tĩnh mạch nhiều hơn, trở nên mạnh hơn và lớn hơn và chịu đựng được sự cắm kim chích thường xuyên trong việc lọc máu. Hai kim được cắm vào lỗ rò: một để hút máu từ cơ thể đưa tới máy lọc, một để đưa máu sạch trở lại cơ thể.

Việc thực hiện lỗ rò này phải được dự trù trước và đôi khi phải cần thời gian là cả năm vết nối mới lành và mới sử dụng được lỗ rò.. Thường thường lỗ rò được làm ở cẳng tay, đôi khi ở cánh tay, phía tay ít dùng trong công việc hằng ngày. Cách này được phổ biến vì ít gây khó khăn lại dùng được lâu hơn

-Tạo ra một cầu nối giữa tĩnh mạch và động mạch bằng một ống nhựa tổng hợp, có nhiệm vụ như một tĩnh mạch, máu ra vô qua cầu nối này.

-Trường hợp cấp bách, dùng một ống nhựa cắm vào tĩnh mạch ở cổ, ngực hoặc dưới bẹn để máu ra vô...

Mỗi lần lọc máu, kim có thể được cắm vào cùng chỗ với lần trước hoặc theo kiểu nấc thang từ dưới lên tên rồi ngược lại.

Trong cả ba phương thức vừa kể, một số rủi ro có thể xảy ra như nhiễm trùng, máu chẩy chậm vì huyết cục ở chỗ cắm kim.

Bệnh nhân nên lưu ý chăm sóc nơi cắm kim:
- Bảo đảm là chuyên viên kiểm soát nơi cắm kim trước khi điều hành máy lọc.
- Giữ gìn nơi cắm kim luôn luôn sạch sẽ
- Chỉ sử dụng chỗ cắm kim cho việc lọc máu chứ không phải cho việc tiêm thuốc trị bệnh khác.
- Khi đo huyết áp, đừng đặt bao lên trên chỗ cắm kim.
- Không mang nữ trang trên chỗ cắm kim.
- Ðừng nằm đè lên chỗ cắm kim
- Ðùng nâng mang vật nặng với cánh tay có chỗ cắm kim.
- Ðếm nhịp tim đập mỗi ngày tại mạch máu nơi cắm kim

Ðịa điểm để lọc máu
Việc lọc máu có thể được thực hiện tại bệnh viện, trung tâm lọc máu hoặc ngay tại nhà riêng.

Nếu là tại nhà thương hoặc trung tâm thận nhân tạo thì lịch trình không thay đổi sẽ là ba lần một tuần. Bệnh nhân có thể chọn những ngày thứ Hai, thứ Tư và thứ Sáu hoặc thứ Ba, thứ Năm và thức Bẩy trong tuần, buổi sáng hoặc buổi chiều, nhưng nên nhớ là thời gian mỗi lần lọc máu kéo dài từ 3 tới 5 giờ. Các chuyên viên y tế có thể hướng dẫn cho bệnh nhân và thân nhân cách thực hiện lọc máu ở nhà cũng như phương thức đối phó với khó khăn có thể xẩy ra. Thời gian cần để huấn luyện là 4, 5 tuần lễ.

Ưu điểm việc lọc máu tại nhà là người bệnh không phải cách ngày đi tới trung tâm, thời gian lọc ngắn hơn vì dung dịch lấy ra mỗi lần đều ít, do đó giảm thiểu được một vài khó chịu như nhức đầu, buồn nôn, mệt mỏi..

Có nhiều phương thức lọc máu tại nhà:
a-Lọc máu theo quy ước thông thường, ba lần một tuần, mỗi lần lâu từ 3 tới 5 giờ.
b-Lọc máu với thời gian thu gọn. thực hiện với loại máy đặc biệt từ năm tới bẩy lần một tuần, mỗi lần kéo dài khoảng 2 giờ.
c-Lọc máu ban đêm ở nhà. Thực hiện mỗi buổi tối hoặc cách tối, trong khi bệnh nhân ngủ, kéo dài từ 6 đến 8 giờ.

Lọc máu qua Xoang phúc mạc
Phúc mạc là lớp màng thanh dịch lót xoang bụng, mặt ngoài áp vào vách bụng, mặt kia bao bọc các cơ quan trong bụng. Xoang phúc mạc có một hệ thống huyết quản rộng lớn. Do đó, trong cách lọc máu này, phúc mạc được sử dụng như một màng lọc và có công dụng như thận nhân tạo.

Một dung dịch gọi là chất thẩm tách gồm có nước, khoáng chất và đường dextrose được đưa vào xoang phúc mạc bằng một cái ống nhỏ mềm. Ðường dextrose sẽ thu hút chất thải, hóa chất và nước dư thừa trong máu vào dung dịch này. Sau vài giờ, dung dịch chứa chất thải được hút ra ngoài, bỏ đi và một dung dịch thẩm tách mới lại được bơm vào xoang.

Phương thức được làm đi làm lại nhiều lần trong ngày để thanh lọc máu.

Cách lọc máu này ít tốn kém, bệnh nhân có thể tự thực hiện lúc nào cũng được. Tuy nhiên, bệnh nhân cần được bác sĩ đặt cho một ống vĩnh viễn vào bụng để chuyền dịch thẩm tách và phải giữ gìn ống sạch sẽ để tránh viêm xoang bụng.

Chế độ dinh dưỡng
Dù là lọc máu bằng thận nhân tạo hoặc qua xoang phúc mạc, người bệnh với suy thận đều cần tuân theo một chế độ dinh dưỡng đúng đắn. Chế độ này sẽ giúp bệnh nhân duy trì một sức khỏe tốt và giúp sự lọc máu được thành công hơn.

Mỗi bệnh nhân có một quy chế ăn uống riêng về các chất dinh dưỡng như nước, các muối khoáng potassium, sodium, phosphore, chất đạm... Các chuyên viên dinh dưỡng có thể giúp bệnh nhân lựa chọn một chế độ dinh dưỡng thích hợp với tình trạng sức khỏe và bệnh trạng của mình.

- Bệnh nhân cần lưu ý tới lượng nước tiêu thụ hằng ngày. Với thận suy mà sử dụng quá nhiều nước sẽ đưa tới ứ nước, tăng huyết áp, tim phải làm việc nhiều hơn.

- Khi bị suy thận, bệnh nhân thường được bác sĩ khuyên giới hạn tiêu thụ chất đạm, để giảm thiếu chất thải ure. Khi lọc máu, bệnh nhân lại được khuyến khích nên sử dụng nhiều hơn các loại chất đạm có phẩm chất tốt từ thịt, cá, gà vịt...vì các chất đạm này tạo ra ít ure hơn.. Lý do là cơ thể cần nhiều chất đạm để tăng cường sức khỏe

- Muối ăn cần được hạn chế để tránh giữ nước trong cơ thể và để tránh tăng huyết áp.

- Potassium thường lên cao trong thời gian giữa hai lần lọc máu và gây ra rối loạn nhịp tim, đôi khi đưa tới ngưng tim. Ðể giữ mức potassium bình thường trong máu, nên bớt ăn thực phẩm có nhiều khoáng này như chuối, cam, trái cây khô...

- Giới hạn thực phẩm có nhiều phosphore như sữa, pho mát, đậu khô.., vì khi dư thừa, khoáng này sẽ lấy calcium từ xương, làm cho xương yếu, ròn, dễ gẫy.

- Lọc máu đôi khi cũng lấy đi một vài loại sinh tố, khoáng chất của cơ thể. Bác sĩ sẽ chỉ định những chất nào mà người bệnh cần dùng thêm.

Người bệnh cũng cần sắp xếp lại nếp sống cho thoải mái, bớt căng thẳng tinh thần, giới hạn các chất có thể gây hại cho thận, nói riêng, và toàn cơ thể nói chung...

Người bệnh có thề đi du lịch đó đây, vì các trung tâm lọc máu đều có sẵn khắp nơi. Ta chỉ cần biết ở nơi nào, lấy hẹn trước để việc điều trị không bị gián đoạn.

Người bệnh cũng có thể tiếp tục công việc thường lệ, sau khi đã làm quen với sự lọc máu, nhưng nên tránh các việc cần nhiều sức mạnh như nâng nhấc vật nặng, đào đất...

Kết luận
Thận nhân tạo là phương thức trị liệu rất hữu hiệu để mang lại sức khỏe cho người bị suy nhược hai trái thận.

Tuy nhiên, phương thức điều trị hoàn hảo hơn vẫn là nếu người bệnh nhận được một trái thận lành mạnh của người khác. Trái thận này có thể đến từ một người nào đó vừa mới mãn phần hoặc qua một thương lượng mua bán.

Ðẹp hơn cả là được trái thận của một người trong gia đình, anh chị em, trao tặng. Vừa thân tình vừa giảm thiểu rủi ro chối bỏ mô bào.

Mức lọc máu cầu thận (GFR) và cách phân chia các giai đoạn suy thận

GFR - mức lọc máu cầu thận là một cách tính để xem chức năng thận còn được bao nhiêu phần trăm, trong việc loại bỏ chất độc hại trong máu. Gần đây, các nhà khoa học đã tìm ra cách tính GFR mà không cần phải tiêm chích hoặc lấy nước tiểu, cách tính này dựa vào chỉ số Creatinine trong xét nghiệm máu.

Creatinine là một chất thải mà máu tạo ra trong khi phân chia các tế bào trong quá trình hoạt động. Thận khoẻ mạnh bình thường sẽ nhận Creatinine loại ra từ máu và đưa vào nước tiểu để chuyển ra ngoài cơ thể. Khi thận không hoạt động tốt, creatinine sẽ tích tụ trong máu.

Trong phòng xét nghiệm, máu sẽ được lấy để xét nghiệm xem có bao nhiêu mi-li-gam Creatinine trong một đê-xi-lít máu (mg/dL).

Mức Creatinine trong máu có thể thay đổi, mỗi một phòng xét nghiệm để một mức tiêu chuẩn bình thường riêng, nhưng thông thường để ở mức 0.6-1.2mg/dL. Nếu mức Creatinine của bạn chỉ hơi cao hơn mức này một chút, bạn có thể không thấy mệt mỏi gì, nhưng kết quả xét nghiệm đó cũng cho thấy dấu hiệu thận của bạn không hoàn toàn khoẻ.

Một công thức khác để định lượng chức năng thận đặt mức Creatinine ở nam giới là 1.7mg/dL và nữ giới là 1.4mg/dL, nghĩa là chức năng thận còn 50%. Tuy nhiên, như đã nói, mức Creatinine có thể thay đổi và cũng bị ảnh hưởng bởi chế độ ăn, nên GFR thường chính xác hơn với bệnh nhân chức năng thận đã bị suy giảm, và dùng GFR để đánh giá mức độ suy giảm.

Cách tính GFR mới kết hợp cả cân nặng, tuổi tác, và thậm chí một số giá trị khác như giới tính, sắc tộc. Một vài phòng thí nghiệm chỉ tính GFR khi kết quả Creatinine do chính phòng thí nghiệm đó đo được.

Các giai đoạn suy thận
Chỉ số GFR của bạn là thông số quan trọng để xác định chức năng thận. Vào năm 2002, Hiệp hội thận quốc gia (Mỹ) đã đưa ra hướng dẫn để xác định giai đoạn suy thận, và chia ra thành 5 giai đoạn chính, dựa vào GFR - mức lọc máu cầu thận.

Nguy cơ bị suy thận. Nếu GFR là 90 hoặc cao hơn một chút thì vẫn được coi là bình thường. Kể cả có GFR ở mức bình thường, bạn vẫn có nguy cơ bị suy thận nếu bạn bị tiểu đường, huyết áp cao, hoặc gia đình có tiền sử bị bệnh thận. Nguy cơ càng tăng cao nếu: tuổi từ 65 trở lên sẽ có nguy cơ cao gấp đôi những người ở độ tuổi 45-64; những người Châu Mỹ cũng có nguy cơ mắc bệnh cao hơn những sắc tộc khác.

Giai đoạn 1: Thận bị tổn thương, GFR bình thường (90 hoặc cao hơn). Thận có thể bị tổn thương trước khi chỉ số GFR giảm. Trong giai đoạn đầu, mục tiêu chữa trị là giảm tiến triển bệnh, và giảm nguy cơ mắc các bệnh về tim mạch.

Giai đoạn 2: Thận bị tổn thương nhẹ, GFR giảm (60 đến 89). Khi chức năng thận bắt đầu suy giảm, các bác sỹ có thể ước tính tiến triển của suy thận và tiếp tục chữa trị để giảm nguy cơ các biến chứng khác.

Giai đoạn 3: GRF giảm (30 đến 59). Khi suy thận đã tiến triển đến mức này, thiếu máu và các bệnh về xương có thể xuất hiện.

Giai đoạn 4: GFR giảm nghiêm trọng (15 đến 29). Tiếp tục chữa trị các biến chứng do suy thận gây ra, bắt đầu phải tính đến các biện pháp chữa trị để thay thế cho thận bị hư tổn. Mỗi một phương pháp chữa trị đòi hỏi có một sự chuẩn bị trước. Nếu bạn chọn chạy thận nhân tạo - lọc máu thẩm tách, bạn cần phải làm phẫu thuật cầu tay. Nếu chọn lọc máu màng bụng, bạn cũng cần đặt ống catheter.

Giai đoạn 5: Suy thận hoàn toàn (GFR thấp hơn 15). Khi thận không còn hoạt động nữa, bạn cần phải lọc máu hoặc cấy ghép thận mới.

Ngoài kiểm tra GFR, một số xét nghiệm khác cũng cần được làm như xác định mức phốt-pho, ka-li trong máu để bác sỹ có thể đưa ra một phác đồ điều trị hiệu quả nhất.

Ngoài ra, bạn có thể tham khảo cách phân chia Giai đoạn suy thận của hãng thuốc Ketosteril:

Giai đoạn bệnh
Biểu hiện
Giai đoạn 1: Giai đoạn còn bù đầy đủ
Tổn thương chức năng thận đã có thể đánh giá được. Tuy nhiên thận vẫn đủ năng lực để thải trừ các chất độc hại
Mức lọc máu cầu thận: 70-50ml/phút
Creatinine máu <133mmol/l (<1,5mg%)

Giai đoạn 2 Giai đoạn chỉ bù được một phần
Thận không còn khả năng thải trừ toàn bộ chất giáng hóa từ protein. Các chất độc hại tích tụ trong cơ thể một cách vừa phải nhưng chưa có triệu chứng lâm sàng.
Mức lọc máu cầu thận: 10-40ml/phút
Creatinine máu <133-710mmol/l (1,5-8mg%)

Giai đoạn 3 Giai đoạn mất bù
Các chất độc hại tích tụ trong cơ thể với mức khá cao và khả năng thải trừ nước của thận cũng bị suy giảm.
Các triệu chứng rõ ràng của suy thận như uể oải, mệt mỏi, chán ăn, khó chịu và nôn mửa xuất hiện.
Mức lọc máu cầu thận: 5-10ml/phút
Creatinine máu <710-1064 mmol/l (8-12mg%)

Giai đoạn 4 Giai đoạn cuối
Đây là giai đoạn cuối cùng của bệnh. Cần phải thay thế các biện pháp ăn kiêng thông thường bằng các biện pháp tích cực thích hợp khác. Các biện pháp này bao gồm lọc máu và ghép thận.
Mức lọc máu cầu thận: <5ml/phút
Creatinine máu >1064 mmol/l (>12mg%)

Theo http://kidney.niddk.nih.gov & Ketosteril

Dấu hiệu của suy thận có thể do sự tích tụ các chất độc hại trong cơ thể:

Có vị tanh trong miệng hoặc hơi thở hôi

Choáng váng, buồn nôn và nôn

Mất cảm giác ngon miệng

Ác cảm với protien (không muốn ăn thịt)

Khó tập trung

Bị ngứa ngoài da

Dấu hiệu của suy thận do tích tụ nước trong cơ thể:

Giữ nước, phù ở mặt, chân hoặc tay

Khó thở, hụt hơi (do có nước ở trong phổi)

Dấu hiệu của suy thận có thể do thận bị tổn thương:

Đi tiểu nhiều hoặc ít hơn bình thường

Nước tiểu có bọt hoặc bong bóng (có thể thấy khi có protien trong nước tiểu)

Máu trong nước tiểu (nhìn thấy qua kính hiển vi)

Dấu hiệu của suy thận có thể do thiếu máu (thiếu hồng cầu):

Mệt mỏi

Yếu sức

Luôn thấy lạnh

Khó thở

Lú lẫn

Thích nhai đá lạnh, hồ cứng (còn gọi là chứng thích ăn dở)

Nếu bạn có bất kể triệu chứng nào kể trên, bạn cần đến gặp bác sỹ để bác sỹ sẽ kiểm tra cẩn thận hơn và xét nghiệm chức năng thận cho bạn.

Một số xét nghiệm bác sỹ có thể yêu cầu làm:

Xét nghiệm nước tiểu, sẽ lấy mẫu nước tiểu của bạn để kiểm tra protein, máu và bạch cầu xem có trong nước tiểu không (bình thường thì không có những chất này)

Xét nghiệm máu xem creatinine và BUN, là những chất thải mà thận khoẻ mạnh sẽ loại bỏ khỏi máu, nếu có mặt trong mẫu máu của bạn nghĩa là thận đã không loại bỏ được

Thông thường, bệnh thận thường không có nhiều dấu hiệu, nhưng nếu bạn có bất kỳ dấu hiệu nào trong số dấu hiệu đã kể trên, bạn phải đến gặp bác sỹ để xem xét cẩn thận hơn. Hãy ghi lại các dấu hiệu mà bạn đã có, theo dõi và đưa cho bác sỹ. Hãy tìm hiểu nhiều thông tin hơn để loại trừ bệnh và nếu có bị bệnh, khi được phát hiện sớm, bạn có thể thực hiện các cách làm chậm tiến trình phát triển bệnh.

Làm gì để làm chậm tiến trình phát triển bệnh?

Có rất nhiều cách để làm chậm tiến trình phát triển bệnh hay ngăn chặn không để xảy ra suy thận mãn, đặc biệt là khi bệnh mới bị ở giai đoạn đầu. Những cách đó bao gồm:

Kiểm soát huyết áp

Giữ huyết áp của bạn ở mức 125/75 hoặc thấp hơn nếu bạn bị tiểu đường hoặc/và có protien trong nước tiểu.

Giữ huyết áp ở mức 130/85 hoặc thấp hơn nếu bạn có dấu hiệu bị bệnh thận nhưng không bị tiểu đường.

Có hai loại thuốc huyết áp làm giảm hoạt động của Angiotensin (là proâtein trong máu, enzyme này làm tăng sản sinh andosterone từ vỏ thượng thận), là một chất có thể làm tăng quá trình phát triển bệnh thận.

Nghiên cứu chỉ ra rằng, thuốc chữa huyết áp ACE và ARBs có thể giúp làm chậm tiến tình phát triển bệnh thận ở bệnh nhân tiểu đường, kể cả khi họ không bị huyết áp cao. Tên phổ biến của loại thuốc này là captopril, enalapril, và lisinopril. Một số loại ARBs phổ biến là losartan, candesartan, và valsartan.

Kiểm soát đường huyết

Nếu bạn bị tiểu đường, kiểm soát đường huyết chặt chẽ là cách làm chậm tiến trình phát triển bệnh thận.

Giữ mức huyết cầu tố (hemoglobin A1c), là mức để đo đường huyết trong khoảng thấp hơn 6.5%.

Để đạt mức Glucoza huyết kiểm soát, bạn sẽ cần kiểm soát mức đường huyết trước để tránh bị giảm glucoza huyết.

Bạn có thể phải tiêm insulin thường xuyên hay dùng thuốc. Hãy hỏi bác sỹ cụ thể và theo sát phác đồ điều trị.

Phục hồi những tổn thương

Ở một vài trường hợp, bệnh thận có thể được chữa khỏi. Nếu bạn có một bất thường làm cản dòng chảy của nước tiểu, phẫu thuật có thể chữa khỏi hoàn toàn. Nếu bạn bị viêm nhiễm đường tiết niệu, dùng kháng sinh sẽ khỏi.

Nếu tổn thương do ảnh hưởng bởi các loại thuốc do bác sỹ kê đơn hay do bạn tự mua thuốc uống, bác sỹ có thể cho bạn những loại thuốc khác ít ảnh hưởng đến thận. Nếu bạn bị bệnh thận và cần phải uống kháng sinh, bạn có thể nói với bác sỹ và bác sỹ sẽ cho đơn thuốc không ảnh hưởng đến thận của bạn.

Một vài bệnh, như viêm thận, viêm tiểu cầu, lupus có thể làm tổn thương thận khi hệ miễn dịch của bạn phản ứng quá mạnh và viêm nhiễm xuất hiện. Ở một vài trường hợp, có thể làm chậm tiến trình phát triển bệnh bằng cách kiểm soát hệ miễn dịch với steroid hoặc/và một số loại thuốc khác.

Hút thuốc làm yếu tố nguy cơ cao và càng đẩy nhanh tiến tình phát triển bệnh, vì vậy cần bỏ thuốc lá ngay nếu bạn đang hút thuốc. Tránh dùng quá nhiều thực phẩm chứa nhiều protein và phốt-pho.

Ăn kiêng và các loại thuốc

Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng ăn kiêng và một số loại thuốc có thể làm chậm tiến trình phát triển bệnh, ví dụ như:

Dầu cá trong điều trị bệnh thận IgA

Thuốc Pirfenidone trong trị bệnh xơ cứng tiểu cầu (FSGS)

Dùng nhiều thực phẩm chứa các chất chống ô-xy hoá hay Vitamin bổ sung

Ngoài ra, việc duy trì lối sống lành mạnh cũng giúp bạn giảm nguy cơ bệnh, như là giảm béo, tập thể dục đều đặn, giữ đời sống cân bằng, ăn nhạt, không uống các đồ uống có cồn.

Theo www.davita.com

Thứ Bảy, 15 tháng 11, 2008

Thuốc điều trị thiếu máu trong suy thận mạn

Thiếu máu là một triệu chứng quan trọng trong biểu hiện mức độ suy thận. Suy thận càng nặng thì thiếu máu càng nhiều. Điều trị thiếu máu là một trong các biện pháp tổng hợp điều trị bảo tồn suy thận mạn.

Tại sao khi bị suy thận mạn bệnh nhân có thiếu máu?

Khi bị bệnh thận mạn tính, lượng các nephron chức năng nguyên vẹn giảm dần từ đó dẫn đến:

- Giảm chức năng ngoại tiết của thận. Nồng độ urê, creatinin, acid uric và các sản phẩm của quá trình dị hóa protein trong máu tăng. Có thể coi đây là các nội độc tố làm cho đời sống hồng cầu giảm, tan huyết.

- Giảm chức năng nội tiết của thận. Các tế bào quanh ống thận giảm sản xuất erythropoietin (EPO). Nội tiết tố này kích thích cấu tạo hồng cầu từ giai đoạn tiền nguyên hồng cầu đến hồng cầu non.

- Thiếu sắt, acid folic, các vitamin, protein là các nguyên liệu góp phần cấu tạo hồng cầu do cung cấp không đủ hoặc kém hấp thu do bệnh đường tiêu hóa.

Trong quá trình điều trị thiếu máu do suy thận mạn cần theo dõi những gì?

Để đánh giá kết quả điều trị thiếu máu cần nắm được các diễn biến:

Về lâm sàng: màu sắc da và niêm mạc, tình trạng phù và tăng huyết áp, các biểu hiện ngoài thận ở đường tiêu hóa (nôn, ợ chua, đi lỏng, phân đen…).

Về cận lâm sàng:

Đánh giá chức năng thận qua xét nghiệm urê, creatinin huyết, từ đó ước tính mức lọc cầu thận.

Các chỉ số huyết học: số lượng hồng cầu; nồng độ huyết cầu tố; thể tích hồng cầu; hồng cầu lưới; tỷ lệ hồng cầu nhược sắc.

Nồng độ sắt huyết thanh.

Nồng độ ferritin huyết thanh.

Độ bão hòa transferrin huyết thanh.

Các thông tin trên ở các thời điểm trước, trong điều trị với các thuốc có tầm quan trọng để xác định liều tấn công, duy trì hoặc ngừng thuốc.

Các thuốc điều trị thiếu máu do suy thận mạn

Dựa vào các cơ chế gây thiếu máu trong suy thận mạn, hai loại nhóm thuốc được sử dụng điều trị tùy theo mức độ suy thận và tình trạng thiếu máu đó là:

Sắt bao gồm sắt dùng theo đường uống, sắt dùng theo đường tiêm tĩnh mạch. Sắt dùng theo tiêm bắp ít sử dụng.

Thuốc có sắt dùng theo đường uống thường dùng sắt hóa trị 2 có thêm acid folic hoặc vitamin C dưới dạng viên, gói hoặc dung dịch. Ví dụ: Fe-Folic, Ferimax, Ferrovit, Feryfol, Ferrogreen, Ferrograd, Feroplex, Fumafer-B9, Tardyferon-B9.

Liều dùng từ 50-100mg/ngày chia 2 lần. Nên uống trước bữa ăn. Các thuốc trên có tác dụng ở giai đoạn suy thận nhẹ và vừa, ít tác dụng khi đã suy thận nặng.

Tác dụng không mong muốn của thuốc có sắt dùng theo đường uống là rối loạn tiêu hóa, táo bón, phân màu nâu đen.

Thuốc có sắt dùng theo đường tĩnh mạch. Các dược phẩm thường dưới dạng sắt - dextran, sắt - gluconat, sắt - sucrose. Hiện nay trên lâm sàng hay sử dụng venofer là sắt - sucrose (ferrioxidum saccharafum) vì hiệu quả tốt và ít tác dụng không mong muốn. Venofer có chỉ định bắt buộc khi đang điều trị với EPO.

Khi dùng pha venofer với dung dịch dextran hoặc dung dịch NaCl 0,9% để truyền tĩnh mạch trong 30 phút. Khi truyền cần được theo dõi cẩn thận.

Liều dùng venofer phụ thuộc vào tuổi, giới, giai đoạn suy thận, chưa lọc ngoài thận, đang lọc máu chu kỳ hoặc lọc màng bụng ngoại trú liên tục với liều tấn công, liều duy trì.

Ngoài venofer còn có maltofer (hydroxyt ferric polymaltose). Trong quá trình điều trị bằng sắt cần theo dõi và phát hiện quá tải sắt hoặc nhiễm sắt để quyết định tăng, giảm liều hoặc ngừng.

Erythropoietin người tái tổ hợp (rHuEPO).

Từ năm 1988 rHuEPO được áp dụng trên thế giới để điều trị thiếu máu do suy thận mạn. Đây là một phát minh lớn của y học trong thế kỷ XX. Người bệnh bị suy thận mạn được điều trị thiếu máu với rHuEPO sẽ được cải thiện chất lượng cuộc sống, giảm số lần nằm viện trong năm, giảm thời gian nằm viện từng đợt cũng như làm chậm diễn biến nặng của bệnh.

Hiện nay có các loại EPO:

- rHuEPO: EPO alpha (epogen, eprex, epokine); EPO beta (neoRecormon).

Các thuốc trên được đóng trong các lọ nhỏ có sẵn bơm tiêm với hàm lượng 1.000UI hoặc 2.000UI, 3.000UI, 4.000UI, 10.000UI được bảo quản ở nhiệt độ 20oC ổn định vì là một sinh phẩm.

- Darbepoietin alpha (aranesp. 1mcg = 200UI đến 220UI) Aranesp được sử dụng nhiều ở các nước Âu, Mỹ. Ở Việt Nam chưa có kinh nghiệm về thuốc này.

EPO được chỉ định cho các bệnh nhân bị suy thận mạn giai đoạn 3, 4 chưa lọc ngoài thận hoặc đang lọc máu chu kỳ, lọc màng bụng ngoại trú liên tục hoặc đã ghép thận có nồng độ huyết cầu tố dưới 100g/l. EPO không dùng trong các trường hợp có suy tim, tăng huyết áp không khống chế được.

Đường dùng EPO được chọn:

Dưới da: Trong điều trị bảo tồn suy thận chưa lọc ngoài thận, trong lọc màng bụng ngoại trú liên tục và sau ghép thận.

Tĩnh mạch: Khi kết thúc các buổi lọc máu trong chạy thận nhân tạo chu kỳ.

Liều EPO được thực hiện theo phác độ khuyến cáo của Hội thận học thế giới: tùy giai đoạn bệnh, tùy loại thuốc để chọn liều tấn công, liều duy trì khi đã đạt mục tiêu.

Các tác dụng không mong muốn có thể gặp trong quá trình điều trị bằng rHuEPO là tăng huyết áp, tắc mạch, đa hồng cầu, bất sản huyết do xuất hiện kháng thể kháng EPO.

Quan niệm hiện nay về truyền máu trong suy thận mạn

Trước đây vì bệnh được phát hiện muộn, người bệnh đến viện trong tình trạng đã suy tim do thiếu máu, số lượng hồng cầu giảm dưới 1,5tera/lít, thể tích hồng cầu dưới 0,15l/lít, nồng độ huyết cầu tố dưới 70g/lít nên cần phải truyền máu tươi hoặc hồng cầu rửa, vì vậy không an toàn có thể bị nhiễm HBV hoặc HIV hoặc các bệnh nhiễm khuẩn khác.

Ngày nay chúng ta đã có điều kiện phát hiện bệnh sớm, điều trị kịp thời và có hai vũ khí chống lại thiếu máu là rHuEPO và sắt tĩnh mạch nên ít xảy ra thiếu máu nặng.

Sở dĩ các nhà thận học khuyến cáo không nên truyền máu vì ngoài việc lây nhiễm còn bị ảnh hưởng đến kết quả ghép thận do cơ thể người bệnh sản xuất yếu tố độc tế bào. Chỉ định truyền máu trong thiếu máu do suy thận mạn rất hạn chế, áp dụng cho những trường hợp suy tim mạch nặng, chảy máu ngoại khoa, tan máu và kháng trị với EPO.

PGS.TS. Trần Văn Chất
(Sức khỏe & Đời sống)